Thứ Ba, 27 tháng 12, 2016

Năm 2016, Nhà xuất bản Hội Nhà văn Việt Nam cho ra đời cuốn tự truyện “Để gió cuốn đi” của nữ nghệ sỹ Ái Vân gây ấn tượng với độc giả.

Ca sỹ Ái Vân được khán thính giả mến mộ, nổi tiếng một thời. Qua cuốn tự truyện nêu trên mà ca sỹ coi như “cục nợ trần gian” chúng ta hiểu sâu hơn, đầy đủ hơn về gia đình cũng như bản thân người nghệ sỹ tài sắc, đa đoan này.

Hà Thị Ái Vân, sinh cuối năm 1954 ở Phố Huế - Hà Nội, cha là Hà Quang Đinh (1913 – 2007) từng nổi tiếng với danh hiệu công tử Hà thành. Mẹ là Ái Liên – nữ nghệ sỹ cải lương tài danh cả trong Nam, ngoài Bắc. Ông nội của Ái Vân là Hà Quang Oánh – một nhà kinh doanh bất động sản giàu có .

Nhà Ái Vân ở cùng ông bà nội ngoại tại 36 – 38 Phố Huế, Hà Nội. Nơi đây từng là trụ sở của gánh hát Ái Liên một thời. Ái Vân có 14 anh chị em, trong đó 3 người anh chị đầu là của con bà mẹ cả Tân Ninh. Bà Ái Liên có 11 người con, nhiều người là nghệ sỹ. Ái Loan – nghệ sỹ cải lương; Hà Quang Sơn – sân khấu; Hà Quang Văn – học Đại học Sân khấu ở Liên Xô, sau này là Hiệu trưởng Đại học Sân khấu TP Hồ Chí Minh; Ái Xuân, Ái Thanh một thời đều là diễn viên Nhà hát tuổi trẻ.

Ái Vân có năng khiếu nghệ thuật, nổi trội là nhạc nhẹ. Từ nhỏ đã tham gia Chương trình ca nhạc măng non ở Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài phát thanh Giải phóng cùng em Ái Xuân. 16 tuổi tham gia đóng phim. Có lần được vào Chủ tịch phủ hát cho Bác Hồ nghe. Năm 1975, Ái Vân học Đại học Thanh nhạc, ra trường đi phục vụ ở cả Biên giới phía Bắc và phía Nam trong đội hình Đoàn ca múa nhạc Trung ương.

Năm 1981, trong liên hoan ca múa nhạc quốc tế 10 ở Dresden – Cộng hoà Dân chủ Đức, Ái Vân được vinh danh với giải thưởng lớn Grand Prix.

Từ năm 1990, sống ở hải ngoại; năm 1998, Ái Vân về nước, có biểu diễn ở một số nơi.

“Để gió cuốn đi” của Ái Vân có nhiều thông điệp khá hay, chân thật, xúc tích. Báo chí đưa tin, trích đăng, trong đó có thông tin sẽ dựng thành phim.

Dưới đây là một số hình ảnh trong cuốn tự truyện này.



Ngày 29/11/2016, Hội nhà văn Việt Nam đã long trọng tổ chức kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hồ Dzếnh – một trong những sáng lập viên của Hội.

Hồ Dzếnh là phiên âm theo tiếng Quảng Đông, tên là Hà Anh, còn gọi là Hà Triệu Anh. Ông sinh năm 1916 ở lang Đông Bích, xã Hoà Trường, nay là xã Quảng Trường, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hoá. Cha là Hà Kiến Huân, người Quảng Đông, Trung Quốc, sang làm săn ở Việt Nam khoảng năm 1890. Mẹ là Đặng Thị Văn, lái đò ở Bến Ghép – Quảng Xương – Thanh Hoá. Tuy nhà nghèo nhưng ông được cha mẹ cho ăn học, đỗ tiểu học ở quê rồi ra Hà Nội học Thành chung năm 1931, sau đó đi dạy học. Ông viết truyện ngắn đầu tay “Lòng mẹ” và làm thơ, được in ở “Trung Bắc chủ nhật” và “Tiểu thuyết thứ bẩy” lúc bấy giờ. Năm 1942, ông cho ra đời tập truyện “Chân trời cũ” và tiểu thuyết “Một chuyện tình 15 năm trước”.

Năm 1945, Hồ Dzếnh tham gia cách mạng, rồi tiếp tục làm thơ, viết truyện, viết kịch. Năm 1948 về Thanh Hoá, lập gia đình với Nguyễn Thị Huyền Nhân –một cán bộ cách mạng tiền khởi nghĩa. Năm 1950, bà Nhân qua đời để lại một người con trai mới 4 tháng tuổi. Năm 1953, Hồ Dzếnh vào Sài Gòn rồi trở về Hà Nội tiếp tục sự nghiệp văn chương. Ở Hà Nội, ông tục huyền với bà Nguyễn Thị Hồng Nhật và vợ goá của cố thi sỹ Trần Trung Phương. 

Năm 1957, tham dự Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ 2, ông được bầu vào Ban chấp hành Hội Văn hoá Nghệ thuật Việt Nam. Ông còn tham dự Đại hội của Hội Nhà văn lần thứ 3 (1983), lần thứ 4 (1989). 

Thời kỳ 1958 – 1975, Hồ Dzếnh cũng tham gia các đợt văn nghệ sỹ thâm nhập thực tế, khoác áo người thợ (hợp đồng) tại các nhà máy Trung quy mô, nhà máy xe lửa Gia Lâm ở Hà Nội và viết báo, đăng thơ dưới các bút danh khác nhau. 

Năm 1991, sau dịp mừng thọ 75 tuổi, nhà thơ mất tại nhà riêng ở Hà Nội. 

PGS.TS Lưu Khánh Thơ nhận định văn xuôi của Hồ Dzếnh góp sức mở rộng khả năng của truyện ngắn trữ tình, tạo nên sự giao thoa, tiếp nối giữa thơ và truyện. TS. Đỗ Thu Huyền cho rằng: thơ Hồ Dzếnh như bức tranh dang dở, những cảm xúc ngập ngừng và được vẽ bởi sắc màu bảng lảng. Nhà thơ Vũ Quần Phương xếp Hồ Dzếnh ngồi cùng chiếu với Thạch Lam, Thanh Tịnh về cả giọng điệu lẫn tâm tình. 

Trong từ điển văn học (T1, XB 1983) có mục từ Hồ Dzếnh. Năm 1988, Nhà xuất bản Hội Nhà văn đã xuất bản “Hồ Dzếnh – Tác phẩm chọn lọc”. Năm 2001, Nhà xuất bản Văn hoá – Thông tin cho ra đời “Hồ Dzếnh – một hồn thơ đẹp”. Nhà thơ Hữu Thỉnh – Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam phát biểu trong dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Hồ Dzếnh đã đề nghị Hội Nhà văn Việt Nam sẽ phối hợp với gia đình nhà thơ biên soạn và xuất bản toàn tập những sáng tác của Hồ Dzếnh. 

Lúc còn đi học ở quê, có ai đó đã gieo vào lòng tôi câu thơ: “Tình chỉ đẹp khi còn dang dở. Đời chỉ vui khi đã trọn lời thề” Sau này tôi mới được biết tác giả của câu thơ trên là Hồ Dzếnh, lấy trong bài “Ngập ngừng” mà cả bài của nó thế này:

Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé 

Để lòng buồn tôi dạo khắp trong sân 

Ngó trên tay, thuốc lá cháy lụi dần.. 

Tôi khẽ nói: Gớm, làm sao nhớ thế? 


Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé! 

Em tôi ơi! Tình có nghĩa gì đâu? 

Nếu là không lưu luyến buổi sơ đầu 

Thủa ân ái mong manh như nắng lụa 

Hoa bướm ngập ngừng, cỏ cây lần lữa, 

Hẹn ngày mai mùa đến sẽ vui tươi 

Chỉ ngày mai mới đẹp, ngày mai thôi! 

Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé 

Tôi sẽ trách – cố nhiên, nhưng rất nhẹ 

Nếu trót đi, em hãy gắng quay về, 

Tình mất vui khi đã vẹn câu thề 

Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở. 

Thư viết xong thuyền trôi chớ đỗ 

Cho nghìn sau ... lơ lửng .. với nghìn xưa. 

(Hồ Dzếnh – một hồn thơ đẹp T243 – 244)[1]

Hà Văn Tăng 
 
=================================================

[1] Tài liệu: - Báo Văn nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam) ngày 3/12/2016

- Hồ Dzếnh – một hồn thơ đẹp, NXB Văn hoá – Thông tin, 2001

- Báo An ninh Thủ đô, 30/11/2016


Nhà thơ Thu Bồn, tên thật là Hà Đức Trọng, sinh tháng 12/1935 (Có tài liệu nói là 1/1936), tại làng Ngũ Giáo, Thanh Quít, xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông là con út trong một gia đình có truyền thống hiếu học và đỗ đạt, là hậu huệ đời thứ 12 của Đặc tấn phụ quốc Thượng tướng Hà Đức Ân, thời Lê Trung Tông, người theo Trịnh Tùng Nam tiến lập ra làng Ngũ Giáp, Thanh Quít ngày nay. Cha là Hà Đình (1895 – 1967), ảnh hưởng tư tưởng Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, tham gia Cách mạng tháng 8/1945, rồi được bầu làm Chủ tịch Uỷ ban Cách mạng lâm thời, Hội đồng nhân dân xã Châu Phong. Sau năm 1954, cụ Hà Đình bị giặc bắt giam ở nhà lao Vĩnh Điện, sau được tha rồi mất bởi bệnh tật. Chị gái thứ ba của Đức Trọng là Long cũng tham gia Cách mạng, bị giặc Pháp bắt và tra tấn dã man đã hy sinh anh dũng.

Người Quảng Nam kiêu hãnh với truyền thống lịch sử văn hoá: “Trung dũng, kiên cường” “Ngũ phụng tề phi”, tự hào với sông Thu Bồn tạo nên làng quê giàu đẹp, thấm đậm bản sắc trung liệt, khoa bảng như Hoàng Diệu, Trần Quý Cáp. Rồi mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Thứ, Nguyễn Văn Trỗi say này. Gia đình và quê hương ấy đã tác động mạnh mẽ đến tình cảm, tư tưởng Hà Đức Trọng. Cho đến khi rời miền Bắc trở về Nam (sau khi tập kết) để chiến đấu giải phóng quê hương, Hà Đức Trọng đã mang bí danh Thu Bồn – con sông nổi tiếng quê hương.

Tính cách người Quảng Nam cũng tạo nên phong cách nghệ thuật của nhà thơ Thu Bồn. Quảng Nam là đất khai phá, có dấu ấn rất quan trọng trong hành trình mở nước khi người Việt vượt đèo Hải Vân vào nơi “thế nước chảy gấp, thổ lực không hậu” như nhiều nhà nghiên cứu nhận xét. 

Ông Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng trước đây là Phạm Đức Nam đã đánh giá: “Thu Bồn – nhà thơ lớn- người Quảng lớn” và đầy ắp “chất Quảng rặt” ở Thu Bồn.

Cuộc đời nhà thơ Thu Bồn luôn rực sáng, càng rực sáng hơn ở những bước ngoặt của lịch sử đất nước, ở lúc cam go, quyết liệt nhất của chiến tranh. Vào những lúc đó, nhà thơ luôn là người đi tiên phòng và đều để lại những tác phẩm ghi dấu mốc lịch sử.

Nhà thơ Anh Ngọc, khi nói về bút danh mang tên dòng sông quê mẹ của Hà Đức Trọng như sau: Nhà thơ Thu Bồn cũng là một dòng sông, dòng sông chở nặng tình yêu... Dòng sông cho con người mượn tên mình để khai sinh giữa đất trời, để góp mặt với đời và đến lượt mình, con người lại mang dòng sông đến với muôn người, làm rạng danh dòng sông ở giữa cuộc đời.

Năm 12 tuổi, Hà Đức Trọng đã phải rời quê hương gia nhập thiếu sinh quân, làm liên lạc cho bộ đội và chiến đấu. Ông đã trở thành người con thân yêu của mọi miền đất nước. Sau chiến tranh chống Pháp, ông là lính pháo binh rồi được đi học Đại học Sư phạm Hà Nội. Trở lại chiến trường khu V và Tây Nguyên, lúc làm phóng viên, lúc làm pháo thủ, biên tập viên tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng Trung Trung Bộ rồi tạp chí Văn nghệ Quân đội.

Nhà thơ Thu Bồn – chiến sỹ Hà Đức Trọng đã có mặt ở những chiến trường gian khổ, ác liệt nhất, rồi cùng tiến về giải phóng Sài Gòn tháng 4/1975. Sau đó lại có mặt ở chiến trường Biên giới Tây Nam. Đặc biệt, Thu Bồn đã trở thành già làng ở Tây Nguyên, khi là già làng I. Blốc, khi là già làng suối Lồ Ồ.

Trường ca “Bài ca chim Chơrao” là mở đầu đột phá trường ca hiện đại của Thu Bồn đã ra đời tại một buôn làng Đê pa Plech – Tây Nguyên và được in Báo Văn nghệ năm 1964, đã gây chấn động làng văn chương. Ngay sau đó, Thu Bồn đã được trao giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu và trở thành Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam khi mới 27 tuổi. Thu Bồn là một trong số ít hiếm hoi các nhà văn Việt Nam hiện đại viết về Tây Nguyên thành công nhất. Theo Trung Trung Đỉnh: đối với Tây Nguyên, chưa có một nhà thơ nào viết được hay và nhiều như Thu Bồn

Thu Bồn là một người đa tài, đa đoan. Khi là Hà Đức Trọng, ông đã nổi tiếng trong thi chạy việt dã do Báo Tiền Phong tổ chức. Ông viết tiểu thuyết, làm thơ, làm báo.. đặc biệt là viết trường ca nhiều nhất. Thu Bồn đã có 7 trường ca, 5 tập thơ. Riêng 1986, cho ra đời 4 tiểu thuyết, trong đó có 2 tập dầy. Ông được nhận giải thưởng cao quý Hồ Chí Minh với 4 tác phẩm là:

- Tuyển thơ Thu Bồn

- Tập truyện ngắn đặc sắc “Dưới tro”

- 2 tiểu thuyết “Chớp trắng” và “Vùng pháo sáng”

Vũ Quảng trong “Nghệ thuật mới” số ra tháng 11/2016 viết về Thu Bồn như sau: Đến như sóng và đi như gió. Ăn to nói lớn đúng chất Quảng Nam thứ thiệt. Thu Bồn được mệnh danh là một tráng sĩ thơ, với cả hai ý nghĩa về tính cách sinh hoạt và giọng điều thơ hào sảng. Nhà thơ Hữu Thỉnh – Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam viết rằng: Nhắc đến Thu Bồn, người ta nhắc đến một tài năng vạm vỡ, một sinh lực tràn đầy, một người triệt để trong ý nghĩ và hành đồng... Thu Bồn là nhà thơ tài hoa, một người dồn đúc nhiều tài năng trong một tài năng.

Thu Bồn – Hà Đức Trọng là niềm tự hào của Quảng Nam, của thơ văn cách mạng và tự hào của Quân đội và người Việt Nam chúng ta.[1]

Hà Văn Tăng

[1] Tài liệu: Thư viện Quốc gia, Báo Nghệ thuật mới (chuyên đề Báo Người Hà Nội tháng 11/2016)

Fanpage họ Hà

Bài hát về họ Hà

ĐỌC NHIỀU NHẤT