PHÒ
MÃ HÀ DI KHÁNH
Hà
Minh Thắng
Ông là Thái phó, Tri châu
Vị Long thuộc Chiêm Hoá, Tuyên Quang ngày nay và là chủ nhân của tấm bia cổ chùa
Bảo Ninh Sùng Phúc do Lý Thừa Ân thực hiện năm 1107. Thân phụ ông đã từng cầm
quân đánh giặc Tống, lập công trong chiến dịch “Tiên phát chế nhân” táo bạo dưới
sự chỉ huy tài tình của Thái uý Lý Thường Kiệt. Ông nội là Thái bảo Tri châu Vị
Long lấy con gái của công chúa thứ ba, con vua Lý Công Uẩn, người sáng lập ra
Triều Lý. Đến Hà Di Khánh lấy em gái vua Lý Nhân Tông và là người họ Hà thứ hai
làm Tri châu Vị Long được làm Phò mã, sánh ngang với họ Thân (Giáp) ở Châu Lạng
nổi tiếng cùng thời. Nối tiếp các tước vị và sự nghiệp của tiên tổ, Hà Di Khánh
có công lao gìn giữ và xây dựng một vùng biên cương trọng yếu rộng lớn tới 49 động,
15 huyện của nước Đại Việt, xứng tầm là Danh nhân lịch sử, cần được tôn vinh.
Đó
là những điều ghi nhận quan trọng tại Hội thảo “Về các danh nhân họ Hà châu Vị
long-Tuyên Quang và giá trị tấm bia Bảo Ninh Sùng Phúc tự” do UBND tỉnh Tuyên
Quang phối hợp với Hội khoa học lịch sử Việt Nam và Ban liên lạc họ Hà Việt Nam
tổ chức thành công tại Thành phố Tuyên Quang vào ngày 23/8/2012 vừa qua.
Tên
tuổi của Hà Di Khánh còn ít được nhắc tới, có chăng chỉ biết đôi dòng khiêm tốn
trong Đại việt sử ký toàn thư (1) và Việt Sử lược (2)… Cuộc
đời và sự nghiệp của ông lại ở chính tấm bia cổ chùa Bảo Ninh Sùng Phúc như
trang sử đá do ông xác lập hiện còn ở Yên Nguyên, huyện Chiêm hoá. Đó là một
trong 18 tấm bia thời Lý có niên đại từ năm 1090 đến 1174 và là tấm bia duy nhất
nằm ở một tỉnh miền núi phía Bắc; còn lại đều ở các tỉnh Đồng bằng Bắc Bộ và
Thanh Hoá, nên tấm bia này qúy hiếm và có giá trị nhiều mặt. Số phận của tấm
bia cũng long đong, nhuộm màu kỳ bí như huyền thoại lưu truyền trong nhân gian.
Văn bia xác định chùa Bảo Ninh Sùng Phúc do Thái phó Hà Di Khánh chỉ đạo xây dựng
đến nay trên 900 năm. Chùa được trùng tu thời hậu Lê, thời Nguyễn, sau trở thành
phế tích và quên lãng, chỉ còn tấm bia hầu như nguyên vẹn thi gan cùng tuế nguyệt
ở Khuôn Khoai, chân núi Đan Hán, nay là Làng Tạc, xã Yên Nguyên. Chuyện kể rằng
tấm bia xưa kia ở đâu đó do một bọn người lạ khiêng đến Khuôn Khoai, làng Tạc bây
giờ; sau lúc dừng chân muốn tiếp tục đi nhưng không sao chuyển bia được nữa, đành
phải bỏ lại. Theo thám sát mới nhất về khảo cổ học với các dấu vết gạch ngói, đá
kê,…xác nhận tấm bia vẫn ở trên cùng mảnh đất dựng chùa cũ nơi thâm sơn cùng cốc
gần thiên niên kỷ; mà vào thời Lý xây chùa để thờ Phật và là nơi dừng chân của
Vua mỗi khi đi qua. Khi chùa đổ nát, tấm bia cũng bị thời gian và cây rừng phủ
lấp. Trước năm 1945 chùa này thuộc xã Yên Lũng, Yên Cốc và Vĩnh Khoái của châu
Hàm Yên do dân ba xã cúng tế chung.
Trong kho thác văn
bia do Viện Viễn Đông Bác cổ sưu tập từ năm 1938 đến 1945 đã bỏ sót văn bia
này. Mãi đến năm 1961 được nhân dân địa phương phát hiện, viết thành báo cáo đề
ngày 26/3/1963, sau đó Trần Huy Bá dịch và công bố văn bia năm 1969. Năm 1972,
khi biên soạn công trình Thơ văn Lý Trần do Viện Văn học thực hiện lại
tiếp tục công bố nội dung văn bia do Đỗ Văn Hỷ dịch.
Ông
Hà Quang Dự là người con của Chiêm Hoá, nguyên Bộ trưởng , Chủ nhiệm UBTDTT kể
rằng năm 1974 khi còn làm cán bộ UBND huyện Chiêm Hoá, còn thấy tấm bia này và
nó được nhân dân địa phương nhắc đến với sự tôn kính thiêng liêng. Thế mà năm
1978 khi xuất bản Văn khắc Hán Nôm của Viện Hán Nôm lại cho rằng tấm bia
đã bị mất! Cũng vào năm đó tấm bia đã được tỉnh Tuyên Quang cho xây dựng nhà
bia hẳn hoi ngay nơi phát hiện. Đến năm 2012 trên nền
(1)
Ngô Sỹ Liên và các sứ thần triều Lê, Đại việt sử ký toàn thư, NXB Khoa học Xã hội
– Hà Nội.1972
(2) Khuyết danh, Việt sử lược-Trần Quốc Vượng dịch. NXB
Thuận Hoá, TTVH ngôn ngữ Đông Tây-2005
nhà bia này đã khánh thành ngôi chùa mới
theo kiến trúc cổ, có cổng tam quan với nhà đón khách khang trang trong tổng diện
tích quy hoạch 16.350m2.
Ngoài ban thờ Phật, ở đây còn có ban thờ họ Lý
và ban thờ họ Hà. Một nhà bia mới đẹp đẽ hơn đã được dựng ngay bên phải chùa
trong đó bên tấm bia cổ kính còn có tấm bia bằng bê tông hình khối tương tự, khắc
chữ Quốc ngữ để mọi người hiểu được nội dung của văn bia xưa
Tấm
bia đá cổ cao 145cm, rộng 80cm có đế hình rùa, bị nứt vỡ một góc phía dưới, có
nét chung của bia thời Lý. Tất cả có 1250 chữ Hán, khắc chìm kiểu chân khải
trong đó còn 1169 chữ khá rõ. Tên bia khắc thể hình thư 6 chữ “Bảo Ninh Sùng Phúc
tự bi” có rồng chầu ở hai bên trán bia. Nội dung văn bia nói những lời ca tụng
và chỉ gốc tích vị Phò ký lang họ Hà với việc người cha đi đánh Ung châu, còn được
lấy em gái Vua và việc làm chùa Bảo Ninh Sùng Phúc. Tấm bia này sánh ngang với
các bia ở Văn Miếu, là nguồn tư liệu quí của quốc gia, mốc dấu văn hoá văn minh
Đại Việt thời Lý và được công nhận di tích lịch sử Quốc gia năm 1998. Đây cũng
là một trong số rất ít bia đá ghi về nhân vật lịch sử. Do đó vấn đề quan tâm đầu
tiên là nhân vật được đề cập trong bia và chủ nhân của tấm bia là ai hội thảo đã
rõ.
Trong sách Văn bia
thời Lý của nhóm tác giả do Nguyễn Văn Thịnh chủ trì đã giải thích rõ về vị
họ Hà (Hà Công) trong bia được Trần Huy Bá trước đây dịch là Hà Công Tông (hoặc
Tung), Đỗ Văn Hỷ dịch là Hà Hưng Tông, nay xác định là Hà Di Khánh. PGS.TS Đinh
Khắc Thuân (Viện nghiên cứu Hán Nôm) cho rằng chữ Tông (hoặc Tung hay Hưng) được
khắc ở bia trong một ô chữ, có thể chữ này do truyền ngôn mà người đời sau đã
khắc thêm vào để chỉ rõ Hà Công có tên tự (hoặc hiệu) là Hưng Tông. Khi làm bia
phải kiêng huý không khắc tên người còn sống nên bỏ trống Trong sử sách cho đến
bây giờ chưa phát hiện có nhân vật nào là Hưng Tông như trước đây đã hiểu mà chỉ
có Hà Di Khánh với sự kiện lịch sử rất trùng hợp với sự tích được ghi trên bia.
PGS.TS Lê Đình Sỹ cũng đưa ra một tên khác nữa là Hà Duy Thái nhưng chưa có tài
liệu cụ thể. Mặc dù còn có những chi tiết khác nhau nhưng tiểu sử vị Thái phó
Tri châu Vị Long này bước đầu thống nhất.
Hà công tên là Hà Di Khánh
tự hiệu là Hà Hưng Tông (hoặc Tung)
Giữ chức Thái Phó, Tri
châu Vị Long từ năm 1086
Năm sinh: Kỷ Dậu – 1069
Dân tộc: Tày
Tôn giáo: đạo Phật
Cao tổ là Hà Đắc Trọng,
từ phía Bắc tới khởi nghiệp ở đất Vị Long như nơi đất lành chim đậu khoảng từ năm
905 đến 920. Làm tù trưởng có thế lực hoặc thủ lĩnh ở địa phương, ông chăm lo
cho dân ấm no, yên bờ cõi nên người đời kính trọng, tôn trưởng. Trải qua 5 đời
đến ông nội của Hà Di Khánh có công lao đối với dân với nước, coi giữ châu Vị
Long tới 49 động 15 huyện nên được lấy con của công chúa thứ 3 của Thái tổ Hoàng
đế Lý Thái Tổ trở thành phò mã nhà Lý
Các nhà khoa học lịch sử
cho rằng châu Vị Long thời bấy giờ rất rộng tương đương đơn vị cấp tỉnh thời
Nguyễn, chí ít cũng gồm 3 huyện Chiêm Hoá, Na Hang và Hàm Yên ngày nay; thậm chí
vươn tới Sơn Dương, Yên Sơn hoặc cả đất Vị Xuyên của Hà Giang. Danh xưng Vị
long tồn tại từ triều Đinh-Lê-Lý-Trần-Hồ. Khi thuộc Minh đổi thành Đại Man. Năm
1831 đổi thành Chiêm Hoá đến nay. Có lúc là châu Khánh Thiện.
Phải là người có thế lực
đứng đầu một vùng đất rộng lớn và quan trọng thuộc “phên dậu Trung châu, địa đầu
quan yếu” như Vị Long mới xứng đáng làm phò mã trong chính sách “nhu viễn” khôn
ngoan thời Lý mà các thủ lĩnh họ Hà vùng này đã nổi danh thế tục qua rất nhiều đời.
Văn bia ghi: Lớn lao
thay họ Hà
……...Tiếng lành rạng
rỡ
Tổ tiên qua đời
Thì cháu con nối gót
Bốn mươi chín động
Đúng mười lăm đời
Bảo toàn sông núi
Vỗ yên nhân dân bằng điều nhân ái.
Nhà Lý cũng đã gả con gái
cho tù trưởng động Giáp ở châu Lạng là Giáp Thừa Quý (sau đó đổi thành họ Thân).
Con trai là Thân Cảnh Nguyên được vua Lý Thánh Tông gả công chúa Thiên Thành vào
năm 1066.
Năm 1036 nhà Lý cũng gả
công chúa Kim Thành cho châu mục Châu Phong là Lê Thuận Tông và công chúa Trường
Ninh cho châu mục Thượng Oai là Hà Thiện Lãm. Nhóm tác giả Văn bia thời Lý nhận
định Hà Thiện Lãm rất có thể là người ông nội đáng kính của Hà Di Khánh ở Vị
Long? Vấn đề còn bỏ ngỏ, cũng như Hà Di Khánh còn có tên gọi nào nữa không, đến
nay cũng chưa rõ
Việt sử lược ghi: Năm
Nhâm Tuất, niên hiệu Anh Vũ Chiêu Thắng, năm thứ 7 (1082) mùa xuân, tháng 2, gả
công chúa Khâm Thánh cho châu mục Vị long là Hà Di Khánh. Đại việt sử ký thời Lê,
Việt sử thông giám cương mục thời Nguyễn đều ghi nhận sự kiện này
Văn bia miêu tả lương
duyên đẹp đẽ đó khá tỉ mỉ:
……. Yến tiệc linh đình
Đủ lễ thân nghinh trịnh trọng
Nghi thức chín, mười người xe ngóng trông tựa đống
Ngôi cao ngũ lục, chị em tập hợp như mây
Triều đình lúc đó muốn
khống chế các thế lực ở địa phương vùng biên viễn, đã dùng cách kết giao thông
minh hiệu quả qua hôn nhân để ràng buộc. Các thủ lĩnh ở các vùng dân tộc khi đã
trở thành phò mã, có chức tước trong triều đình sẽ trở thành đắc lực cho chính
quyền ở Trung ương. Họ Thân ở châu Lạng là một điển hình; ba đời nối tiếp làm phò mã có công lớn trong
sự nghiệp bảo vệ đất nước thời Lý, đến nay các dân tộc ở địa phương vẫn rất mực
tôn thờ.
Họ Hà ở châu Vị Long cũng
vậy. Kể từ Hà Đắc Trọng cai quản châu Vị Long đã có 02 ông và cháu Hà Di Khánh được
làm phò mã nhà Lý. Đến năm 1180 lại có Hà Công Phụ, Tri châu Vị long lấy công
chúa Hoa Dương. Rất có thể vị phò mã này là cháu, chắt, hậu duệ của Hà Di Khánh?
Châu Vị Long có vị trí địa
- chính trị - quân sự quan trọng nên mới được triều đình quan tâm và ưu ái đến
như thế.
Việc chọn Hà Di Khánh làm
phò mã diễn ra sau chiến thắng giặc Tống vài năm và khi đó Hà Di Khánh còn nhỏ
tuổi chắc không phải là ngẫu nhiên hoặc còn có liên quan đến điều gì nữa chăng.
Văn bia cho thấy rằng ông
nội của Thái phó sinh được 4 trai, 3 gái đều là người tài sắc, đảm đang. Cha của
Thái phó là người mẫu mực vì nước vì dân. Ông cũng là rể họ Lý, lấy con gái thứ
6 của Thái thú châu Phú Nghĩa (nay là Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên). Hà Di Khánh
là con trai thứ tư, cũng như các anh chị đều được dưỡng dục chu đáo, đào tạo hợp
cách, con trai lo dùi mài kinh sử, con gái chăm chỉ nữ công gia chánh…
Đặc biệt trong chiến dịch
“Tiên phát chế nhân” (1975-1976), thân phụ Thái phó đã huy động lực lượng, chỉ
huy cánh quân Vị Long đánh thành Ung Châu, lập chiến công, bắt tướng giặc… Do đó
ông được vua ban chức Hữu đại liêu ban, Đoàn luyện sứ . Song rất tiếc là trước đây
do không có thông tin tư liệu về tấm bia Bảo Ninh Sùng Phúc tự nên khi viết cuốn
sách công phu về Lý Thường Kiệt xuất bản năm 1949, GS Hoàng Xuân Hãn đã
không biết đến có cánh quân của vị chỉ huy họ Hà châu Vị Long cũng tham gia mà đã
được ghi trong bia.
Chúng ta biết vào năm
1074 vua Tống theo mưu kế của Vương An Thạch đã cho huy động khoảng 10 vạn quân,
lập 5 liên trại thuộc châu Ung, châu Khâm, châu Liêm sát theo biên giới nước ta
để chuẩn bị tiến đánh Đại Việt, đặc biệt là châu Ung có lực lượng mạnh do lão
tướng Tô Giám chỉ huy. Thái uý Lý Thường Kiệt cho rằng: ngồi yên đợi giặc sao bằng
đem quân đánh trước bẻ gẫy mũi nhọn của chúng. Nên cuối năm 1075 các đạo quân của
ta từ các châu Quảng Nguyên, Quang Lang, Tô Mậu, Lạng châu và Vị long do các thủ
lĩnh Tông Đản, Hoàng Kim Mãn, Thân Cảnh Phúc, Lưu Kỷ, Vi Thủ An và vị thủ lĩnh
họ Hà chỉ huy chia nhiều mũi bất ngờ tấn công vào đồn trại quân Tống làm cho chúng
tổn hại nặng nề, và điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho ta giành chiến thắng
oanh liệt trên phòng tuyến sông Như Nguyệt năm 1077 khi quân Tống đánh sang.
Chiến dịch “Tiên phát
chế nhân” nổi tiếng, đánh thành Ung châu rất ác liệt, có sự đóng góp của quân dân
châu Vị long đến nay mới được nhắc tới.
Người soạn văn bia cho
Hà Di Khánh chính là Lý Thừa Ân là Triều liệt (thỉnh) đại phu, Đông thượng cáp
môn sứ, Thượng thư viên ngoại lang, Tứ tử kim ngư đại đã đi sứ sang Tống năm
1132. Ông thuộc hàng đại thần, không thể ghi chép tuỳ tiện được. Do đó, ngoài đóng
góp về sử học, phật học, văn học, những điều ngắn gọn về thân phụ Hà Di Khánh là
tư liệu lịch sử quân sự rất quý báu cần được bổ sung và tiếp tục nghiên cứu sâu
hơn.
Trong thời kỳ chiến
tranh, Hà Di Khánh còn nhỏ, năm Đinh Tỵ (1077), mới 9 tuổi (tính cả tuổi mụ), ông
được về Thăng Long, sống trong Hoàng cung, làm quen với hoàng tộc. Hà Di Khánh được
kết bạn với công chúa cùng trang lứa, rồi được phép trở về Vị Long.
Năm Mậu Ngọ (1078), Hà
Di Khánh được ban chức Văn tử lang trung kiểu, được kết duyên với công chúa Khâm
Thánh, nhân đó được phong chức Tả đại liêu ban. Phải chăng đây cũng là cách dùng
người, phát hiện nhân tài và bồi dưỡng nhân tài rất đắc dụng thời Lý. Năm 1085
cha mẹ đều mất. Năm Bính Dần (1086) tròn 18 tuổi, Hà Di Khánh được nối tước của
cha làm Tả đại liêu ban giữ chức Tiết độ sứ, Tri châu Vị Long hàm Kim tử quang
lộc đại phu, kiểm hiệu Thái phó. Tập tước từ vị tằng tổ.
Sau đó ông được thăng
Phò Ký lang (tức Phò mã), Đô tri tả vũ vệ Đại tướng quân, Kim tử quang lộc Đại
phu, kiểm hiệu Thái phó, Đồng Trung môn hạ Bình chương sự kiêm Quản nội khuyến
nông sự, Thượng trụ quốc, hưởng ấp 3900 hộ, thực lộc 900 hộ. Cùng thời có Thái
phó Nội trưởng quan Lưu Khánh Đàm hưởng thực ấp 6700 hộ, thực phong 3000 hộ;
Thái úy Lý Thường Kiệt hưởng thực ấp 10.000 hộ, thực phong 4000 hộ.
PGS.TS Nguyễn Đức Nhuệ
(Viện sử học) giải thích về một số chức quan của Hà Di Khánh như sau:
- Tả đại liêu ban: là một tước phong, xếp
vào hàng ngũ quý tộc, là công thần
- Tiết độ sứ: là chức quan đứng đầu việc
quân và chính quyền ở một địa phương, ở đây là châu Vị long và vùng kiêm quản
- Kim tử quang lộc đại phu: Đối chiếu với
nhà Tống đương thời phù hợp với chức Lại bộ thượng thư, trật chánh nhị phẩm
- Kiểm hiệu: như chế độ
Tham tư, một loại nhiệm dụng không chính thức
- Thái phó: là chức cao
trong hàng Tam công tương tự như Tư đồ, Tư mã, Tư không, sau này gọi là Thái
sư, Thái phó, Thái bảo đều mang hàm chánh nhất phẩm. Thời Lý coi đây là danh hiệu
giao cho đại thần, có người kiêm làm Tể tướng như Tô Hiến Thành đời Lý Anh Tông.
- Đồng trung thư môn hạ
Bình chương sự: là cùng các quan trong cơ quan làm việc của Tể tướng bàn luận
quốc sự. Chức quan này phải từ hàng ngũ phẩm trở lên. Chức Kiểm hiệu Bình
chương sự còn giao cho những nhân vật nổi tiếng như Lý Thường Kiệt, Lý Đạo
Thành đều giữ chức này.
- Kiêm quản nội khuyến
nông sự: Theo PGS.TS Nguyễn Minh Tường, đây là chức quan trông coi nông nghiệp.
Tri châu Hà Di Khánh đã thực hành chính sách Tỉnh điền, ruộng đất chia làm 9
khu, giữa là ruộng công, 8 khu ngoài để dân cày cấy và những người dân này chung
sức sản xuất khu ruộng công.Việc đánh thuế cũng giảm nhẹ, cứ 100 mẫu ruộng chỉ
phải nộp thuế 01 mẫu. Ông đã thực hiện chính sách mà đời sau gọi là “Khoan thư
sức dân”, “ngụ binh ư nông”. Nhờ có chính sách khuyến nông tiến bộ và khoa học
mà đời sống nhân dân Vị long được nâng cao. Văn bia tả cảnh: Thóc lúa ùn ùn
như núi. Khách khứa 3000 đông đúc cửa nhà, nhộn nhịp phố phường. Thời
Lý là thời thịnh trị, đánh dấu bước phát triển rực rỡ của Đại Việt mà cảnh tả ở
Vị Long là một điển hình.
Ở đây, Hà Di Khánh được
Lý Thừa Ân so sánh với tứ công tử thời Chiến Quốc như Mạnh Thường Quân là người
giàu có, hào hoa, quyền thế và được lòng dân. Hà Di Khánh có công lớn về kinh tế
phát triển dân sinh, còn có công phát triển văn hoá, góp phần truyền bá đạo Phật
cho đồng bào dân tộc ở thượng du. Ông Vua khởi nghiệp nhà Lý xuất thân là nhà sư.
Các vua Lý đều tôn sùng đạo Phật nên quý tộc, quan lại đều mộ Phật; Hà Di Khánh
không ngoại lệ. Cho nên vào năm 1107, ngót 40 tuổi, đủ độ chín cả về thể chất,
tinh thần, Hà Di Khánh cho xây dựng chùa Sùng Phúc ở đất Bảo Ninh, thuộc Trấn Vọng
quốc (theo cách giải thích của PGS.TS Nguyễn Tá Nhí, Viện Hán Nôm) và cho dựng
bia này.
Thái phó Hà Di Khánh
quan niệm rằng: “Nước xây dựng trên đạo thì vững như cột đá, dân hấp thụ
giáo hoá thì thuận như dòng sông”. Cho nên 17 viên đá kê chân cột là dấu tích còn lại của ngôi chùa cổ lỗng lẫy mà
văn bia đã nói rõ lai lịch: Vào rằm xuân, năm Đinh Hợi (1107), niên hiệu Long
phù Nguyên hòa, Hà Di Khánh đưa các hương lão địa phương đến xem đất ở vùng góc
quận ấp để dựng chùa. Đốn ngã cây rừng, chọn thợ tài xây nhà cửa. Thanh xà uốn
cong cong, ngỡ cầu vồng bắc nhịp, mái hiên chùa uốn lượn, tưởng chim núi tung
bay. Chùa phấn sức xung quanh, tượng vàng bày lấp lánh.
Tri châu phò mã rất
quan tâm đến văn hoá và đề cao vai trò đạo Phật – Ông cho dựng chùa như văn bia
mô tả còn là để cầu nguyện cho nhà vua trường thọ, giữ đạo Phật trường tồn, tổ
tiên có nơi hương khói đời đời, vợ con được an khang thịnh vượng mãi mãi. Một
tri châu tín mộ Phật, trung thành với vua, hiếu kính với cha mẹ, tình nghĩa với
vợ con cho chúng ta một tấm gương. Ông cho dựng chùa và khắc bia với dụng ý rất
thực tế để làm cơ sở cho việc dưỡng dục văn hoá dân chúng và các thế hệ nối tiếp.
Chùa Bảo Ninh Sùng Phúc rõ ràng là một thiết chế văn hoá đặc biệt quan trọng ở địa
phương và cơ sở lúc đó. Hà Di Khánh là người có công đầu trong việc đưa phật pháp
với những điểm ưu việt, tính nhân văn vốn có đến với người dân Vị long và vượt
xa các bậc tiền bối mình trong việc dẫn dắt con dân vùng biên cương này đến với
đạo Phật một cách sâu sắc, thiết thực. Đó cũng là cách giữ vững biên cương, bảo
vệ bờ cõi tốt nhất cần phải có lúc đó sau những cuộc chiến tranh, nổi loạn,
xung đột. Đó cũng là cách gắn kết giữa người dân ở biên viễn xa xôi với nhà nước
ở Trung ương tốt nhất mà Hà Di Khánh đã cố gắng thực hiện, đáp ứng yêu cầu của
Triều đình và nhà vua lúc đó. Trong đầu có vua, trong tim có Phật, trong mắt có
dân, Hà Di Khánh chia sẻ rằng phải tu nhân tích đức, răn dạy người đời chớ tham
- sân - si, xây điều thiện, giữ điều lành là những báu vật hơn cả châu báu.
Xây chùa tô tượng đúc chuông
Ba công đức ấy thập phương nên làm.
Ngôi
chùa xưa đổ nát nay đã được xây dựng lại mới, cùng với tấm bia cổ, được xếp hạng
di tích lịch sử quốc gia và nhà nước đầu tư kinh phí tu tạo. Tổng dự toán công
trình là 8,8 tỷ đồng, đã được cấp gần 5 tỷ dồng còn lại cần sự đối ứng của địa
phương và huy động xã hội hóa.
Với
truyền thống uống nước nhớ nguồn, tri ân với tiền nhân, Ban liên lạc họ Hà Việt
Nam đã nghiên cứu và phối hợp với UBND huyện Chiêm Hoá tổ chức Toạ đàm về
giá trị tấm bia Bảo Ninh Sùng Phúc tự. Lại được sự hưởng ứng của Hội khoa học
lịch sử Việt Nam, đã huy động 15 nhà nghiên cứu thuộc Viện sử học, Viên nghiên
cứu Hán Nôm, Viện lịch sử quân sự tham gia hội thảo với 18 bài tham luận cho Hội
thảo khoa học “Các danh nhân họ Hà châu Vị Long-Tuyên Quang và giá trị tấm bia
Bảo Ninh Sùng phúc tự ” thành công. GS.NGND Đinh Xuân Lâm, Phó chủ tịch Hội
khoa học lịch sử Việt Nam, nhà sử học Dương Trung Quốc, phó chủ tịch kiêm Tổng
thư ký Hội khoa học lịch sử VN cùng bà Vũ Thị Bích Việt, Uỷ viên thường vụ, Phó
chủ tịch UBND tỉnh Tuyên Quang và ông Hà Văn Lợi, Trưởng ban liên lạc họ Hà Việt
Nam đã chủ trì cuộc hội thảo. Ngoài các đại biểu thuộc các sở, ban ngành và lãnh
đạo các huyện của Tuyên Quang tham dự hội thảo còn có các đại biểu các dòng họ
Hà của các tỉnh Hà Giang, Hải Phòng, Thái Nguyên, Phú Thọ, Thanh Hoá, Nghệ An,
Hà Tĩnh và Hà Nội về dự. Nhiều đại biểu là người mang họ Hà nguyên là lãnh đạo
hoặc là lãnh đạo của các cơ quan ở Trung ương và nhiều địa phương cũng có mặt
như ông Hà Quang Dự, nguyên Bộ trưởng, Chủ nhiệm UBTDTT; Tiến sỹ Hà Phúc Mịch,
Phó chủ tịch thường trực Hội Nông dân Việt Nam, ông Hà Minh Huệ , Phó chủ tịch
thường trực Hội nhà báo Việt Nam cũng có mặt và phát biểu ý kiến. Đặc biệt là bà
Hà Thị Khiết, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban dân vận Trung ương không về dự
được đã có thư mừng. Ông Hà Hùng Cường, Uỷ viên BCH Trung ương Đảng, Bộ trưởng
Bộ Tư pháp gửi lẵng hoa chúc mừng . Điều này cho thấy ý nghĩa sâu sắc của Hội
thảo này. Nó diễn ra ngay sau khi Tuyên Quang long trọng tổ chức đón Bằng công
nhận Di tích lịch sử Tân Trào là Di tích lịch sử đặc biệt của quốc gia trong không
khí cả nước tưng bừng chuẩn bị kỷ niệm 67 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh
2/9.
Trở
về với Tuyên Quang, không chỉ là trở về với quê hương cách mạng với Thủ đô kháng
chiến mà còn là trở về với cội nguồn đất nước, với dân tộc mà vùng Chiêm hoá ngày
nay vốn là trung tâm của Vị long xưa như một điểm hẹn được người dân Chiêm Hoá
nói riêng, Tuyên Quang nói chung chuẩn bị từ nghìn năm về trước. Vị Long có núi,
có sông với hệ sinh thái đa dạng, cây loài phong phú, nhiều lâm thổ sản, động
thực vật quý hiếm. Nơi đây từng có đường thuỷ bộ phát triển, giao thương buôn bán
sầm uất từ cổ đại. Lịch sử còn ghi nhận năm 1006, châu Vị long dâng con ngựa trắng,
bốn chân có cựa. Năm 1060, dâng con voi trắng. Năm1012 triều đình vây bắt bọn
buôn lậu thu được được hơn một vạn con ngựa. Những năm 70 thế kỷ trước người ta
còn thấy ở Chiêm Hoá có chiếc sanh lớn bằng đồng, có 12 ngăn có thể nấu 12 món
cùng lúc cho hàng chục người ăn. Ẩm thực ở đây cũng đậm sắc màu văn hóa dân tộc,
trong đó có thứ bánh gai ngon nổi tiếng. Vị Long xưa, Chiêm Hoá ngày nay là một
địa chỉ đỏ, nơi đến của du lịch văn hoá tâm linh và sinh thái mà chùa Bảo Ninh
Sùng Phúc là điểm dừng chân.
Nhiều
nhà khoa học trong hội thảo đã đề xuất cần hoàn thiện các hạng mục của chùa Bảo
Ninh Sùng Phúc để phục vụ du khách đến thăm quan thưởng lãm. Do vị trí độc đáo
và giá trị lịch sử tấm bia nên cần có phiên bản như bản gốc và đặt ở Bảo tàng
Tuyên Quang để những ai không có điều kiện đến Chiêm Hoá có thể tìm hiểu. Nên xây
dựng một đền thờ họ Hà ở Chiêm Hoá, trong đó suy tôn Hà Đắc Trọng là một vị
tổ. Hiện nay, một số dòng họ trong nước cũng đã và đang vấn tổ tầm tông,
suy tôn tổ họ như:Vũ Hồn với họ Vũ (Võ) Việt Nam, Hồ Hưng Dật với họ Hồ, Trần
Kinh với họ Trần, Thân Thừa Quý với họ Thân, Tô Lịch với họ Tô, Phạm Tu với họ
Phạm,…
Theo hướng này, PGS.TS
Nguyễn Minh Tường(Viện sử học) rất mạnh mẽ đề xuất do công lao và sự nghiệp của
Thái phó Hà Di Khánh đối với lịch sử nước nhà, xứng đáng được tôn vinh là Danh
nhân lịch sử văn hoá. Ông còn trân trọng đề nghị tỉnh Tuyên Quang lựa chọn
một phố đẹp ở Thành phố Tuyên Quang đặt tên “Phố Hà Di Khánh”. Nhóm tác
giả cuốn sách do GS Đinh Xuân Lâm và Trương Hữu Bính chủ biên: Việt Nam-các
nhân vật lịch sử văn hoá cũng đã ghi danh Hà Di Khánh cùng với gần 1000 nhân
vật được chọn lọc trong lịch sử. Từ Điển Bách Khoa Đất Nước con người Việt
nam do GS-NGND Nguyễn Văn Chiển và TS Trịnh Tất Đạt đồng chủ biên – NXB
TĐBK (tái bản lần thứ 2) cũng ghi danh Hà Di Khánh.
Chùa Bảo Ninh Sùng Phúc
là thiết chế đa năng vốn đã hấp dẫn, sau khi trùng tu tôn tạo, không thể chỉ khói
hương, gõ mõ theo kỳ cuộc đơn điệu. Nên chăng phải nghiên cứu phục dựng lại những
lễ hội cần có phù hợp và mang dấu ấn thời Lý vào các dịp Phật Đản, lễ Vu Lan báo
hiếu, hội phóng đăng như Hội Quảng Chiếu ở Hà Nội đang làm,…Ngoài những hạng mục
công trình đã được Nhà nước cấp kinh phí, rất cần sự đóng góp công đức của người
dân, của xã hội theo tinh thần xã hội hoá để các hạng mục đang dở dang hoặc còn
làm tiếp cần hoàn thiện như gác chuông, vườn cảnh, đường đi,…Quả chuông to, nặng
850kg đã đúc xong, nằm phía trái chùa đang chờ ngày được treo lên và ngân vang
bên dòng suối Yên Nguyên róc rách chảy uốn khúc phía trước chùa từ bao đời nay.
Quản lý, sử dụng và
khai thác di tích văn hoá cũng như chùa Bảo Ninh Sùng Phúc vào hoạt động đúng mục
đích, yêu cầu, phát huy cao ý nghĩa tác dụng giáo dục là thể hiện sự tri ân đối
với tiền nhân, tâm linh tín ngưỡng đúng mức của người Việt Nam trong thời đại mới.
Vị long - Tuyên Quang là
đất địa linh nhân kiệt. Thân thế, sự nghiệp của Thái phó, Tri châu, phò mã Hà
Di Khánh đã quá rõ ràng và là nhân chứng thể hiện điều đó. Công lao của các bậc
tổ tiên đến Hà Di Khánh với tầm nhìn xa trông rộng rất đáng trân trọng. Chắc chắn
các đời con cháu chắt và nối tiếp về sau đã tiếp tục sự nghiệp xây dựng quê hương
đất nước, bảo vệ bờ cõi vững bền cho đến nay cũng rất đáng kính nể.
Việt sử lược ghi lại rằng:
mùa đông năm 1180 thủ lĩnh châu Vị long là Hà Công Phụng lấy công chúa Hoa Dương.
Tuy chưa có điều kiện nghiên cứu và tìm hiểu về nhân vật này, nhưng chắc chắn đó
là người họ Hà ở Vị long xưa, rất có thể cũng là hậu duệ xa gần với Hà Di Khánh
theo
chính sách tập phong của triều Lý. Nếu không phải là người có họ hàng thì vẫn là
người ở Vị long chịu ân huệ của Hà Di Khánh từ trước đó cũng như các dân tộc châu
Vị long mà mới có được.
Vị long xưa đã là cơ sở
vững chắc tin cậy của nhà Lý không phải ngẫu nhiên lại trở thành căn cứ địa của
Cách mạng bởi mảnh đất hiểm yếu khó công, dễ thủ; bởi con người ở đây vẫn kiên
trinh, yêu lao động, chuộng hoà bình, trân trọng các giá trị văn hoá và cầu
mong tiến bộ mà những người như Hà Đắc Trọng, Hà Di Khánh đến Hà Công Phụng là
những điển hình tiên tiến từ ngàn năm trước đã dày công xây dựng.
Chiêm Hoá, Tuyên Quang
bây giờ là đất “cơ mi” và là “mảnh sót” còn lại theo cách gọi của các nhà khoa
học về Vị long xưa đã nổi danh qua thời kỳ Cách mạng và kháng chiến chống thực
dân Pháp về sự kiên cường, anh dũng của mình. Mảnh đất Yên Nguyên của Chiêm Hoá
cũng vậy - một xã Anh hùng với những chiến công trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Vào những năm đầu của thập kỷ 60 của thế kỷ trước, Yên Nguyên cũng đã được chọn
là nơi xây dựng mô hình điển hình về văn hoá của nông thôn mới xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta càng tự hào bởi
Chiêm Hoá, ngày nay cũng sản sinh ra những người trai tài, gái đảm, bám đất, bám
bản xây dựng quê hương giàu mạnh, xây dựng nông thôn mới phát triển bền vững, mà
tiêu biểu là những người con họ Hà từ Yên Nguyên, từ Chiêm Hoá trưởng thành, phát
triển đang có mặt ở khắp các nơi với các cương vị khác nhau ở các cơ quan từ địa
phương đến Trung ương.
Một vài thí dụ như: ông
Hà Quang Dự làm cán bộ ở Chiêm Hoá khi còn rất trẻ, vào Ban chấp hành Trung ương
Đảng và là Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh rồi làm Bộ trưởng,
Chủ nhiệm Uỷ ban TDTT như Thượng thư trước đây.
Một gia đình họ hàng gần
gũi với ông là gia đình có công với Cách mạng. Tất cả có 10 người con trai và gái,
trong đó có 02 người là thương binh, những người còn lại đã và đang công tác ở
xã, huyện Chiêm Hoá, ở các huyện của Tuyên Quang và tỉnh Tuyên Quang. Người con
trai thứ năm là Tiến sỹ Hà Phúc Mịch, hiện đang là Phó chủ tịch thường trực
Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, nguyên là Chủ tịch UBND tỉnh Tuyên Quang. Đặc
biệt có người con thứ ba trong gia đình nhưng gái là đầu, là bà Hà Thị Khiết như
bông hoa đẹp của xứ sở, nguyên là Bí thư tỉnh uỷ Tuyên Quang, nguyên Chủ tịch Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, nay là Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Dân vận
Trung ương.
Một nhà như thế, một dòng
họ như thế rất đáng trân trọng. Một vùng quê có những người con như thế, một dân
tộc có những người đồng bào, đồng chí như thế rất đáng tự hào. Phải chăng điều đó
cũng có nguyên nhân từ xa xưa, có cơ sở từ nguồn cội. Chúng ta chưa biết được
những trường hợp khác giống như gia đình nêu trên, đặc biệt là đối với người dân
tộc thiểu số phải nói là quý hiếm, dù có hay không có liên hệ gì về gene, về dòng
tộc nhưng chắc chắn từ Hà Di Khánh và xa hơn về trước kể từ Hà Đắc Trọng đến Hà
Quang Dự, Hà Thị Khiết ngày nay là sự nối tiếp truyền thống vẻ vang.
Chúng ta dù có hay không
mang danh họ Hà thì hiện tượng trên đây rất đáng suy ngẫm, tìm hiểu, tôn vinh.
Hà Di Khánh xứng đáng là danh nhân lịch sử văn hoá quốc gia. Ông là niềm tự hào
của các dân tộc tỉnh Tuyên Quang, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, của cả
nước. Rất đúng như ông Chủ tịch UBND Tỉnh Tuyên Quang Chẩu Văn Lâm nói với các
nhà khoa học trong lúc gặp mặt thân mật rằng đây là giá trị tinh thần, là tài sản
quý báu của Tỉnh.
Việc nghiên cứu còn rất
nhiều, nhất là thân thế và sự nghiệp của Hà Di Khánh, cũng như các thế hệ sau của
ông`trước đây còn khó khăn hạn chế, nay đã có điều kiện thực hiện tiếp tục. Các
kết luận của hội thảo và đề xuất của các nhà khoa học cần được các cấp chính
quyền và các cơ quan liên quan nghiên cứu xử lý tích cực.
Hội thảo khoa học về các
danh nhân họ Hà châu Vị long và giá trị tấm bia Bảo Ninh Sùng Phúc tự đã có kết
quả khả quan bước đầu. Kinh nghiệm từ cuộc hội thảo này rất tốt và cho thấy phải
kết hợp cả các nhà khoa học về các lĩnh vực khác nhau với chính quyền các cấp ở
địa phương và các dòng họ trong tình hình hiện nay. Các nhà khoa học cũng cần
phối hợp với nhau chặt chẽ, đưa ra những lý lẽ sát thực những phát hiện mới có
giá trị thuyết phục cao giúp cho người dân và xã hội có chỗ dựa khoa học để giải
quyết các vấn đề thực tiễn; tránh tình trạng “đánh rắn giữa khúc”, “gõ trống bỏ
dùi” dẫn đến tình trạng ai hiểu sao cũng được, khó vận dụng vào cuộc sống.
Hà Di Khánh là danh nhân
lịch sử dẫu sao cũng đã đi vào lịch sử. Vấn đề là chúng ta và thế hệ trẻ hôm
nay, con em dòng họ Hà bây giờ, trước hết là ở Chiêm Hoá, ở Tuyên Quang có học
tập và phát huy được những mặt tốt đẹp, những giá trị tích cực của Hà Di Khánh
mới là cần thiết.
Hà Nội, mùa Thu
tháng 9/2012
0 nhận xét:
Đăng nhận xét